Ung thư dương vật là bệnh tương đối hiếm gặp ở các nước phương Tây, tuy nhiên ung thư dương vật lại là bệnh thường gặp ở các nước châu Á, châu Phi và các nước Nam Mỹ.
Phái mạnh cần cẩn trọng với ung thư dương vật. Ảnh minh hoạ. |
Tin hot:
Tỷ lệ ung thư dương vật rất thấp ở các nước Do Thái do ở nơi đây có tập tục cắt bao qui đầu cho trẻ nhỏ vào ngày rửa tội đầu tiên. Tại Việt Nam, ung thư dương vật chiếm khoảng 3,4% các ung thư ở nam giới.
Các yếu tố nguy cơ.
Cho đến nay người ta chưa xác định được chắc chắn nguyên nhân gây bệnh ung thư dương vật tuy nhiên người ta đề cập đến một số yếu tố nguy cơ có liên quan đến sự phát sinh và phát triển các khối u này:
– Hẹp bao qui đầu:
– Kém vệ sinh tại chỗ:
– Nhiễm virus HPV (Human papillome virus):
HPV có nhiều nhóm khác nhau trong đó có một vài nhóm có khả năng gây ung thư cao là 16,18,33,35,45. HPV cũng là nguyên nhân gây ung thư cổ tử cung ở phụ nữ. Chúng lây qua đường giao hợp không an toàn (quan hệ tình dục sớm, nhiều bạn tình, quan hệ với người có nhiều bạn tình, không sử dụng bao cao su khi quan hệ tình dục). Đối với ung thư dương vật HPV nhóm 16 có ảnh hưởng lớn nhất.
– Hút thuốc lá: Trong khói thuốc lá có nhiều chất gây ung thư, các chất này ngấm vào máu sau đó chúng được đào thải qua nước tiểu, các chất này góp phần gây ung thư dương vật đặc biệt ở người có nhiễm HPV.
– Điều trị bệnh vảy nến bằng tia cực tím
– Nhiễm HIV/AIDS: những người bị HIV/AIDS có nguy cơ cao bị ung thư dương vật, có thể do sự suy giảm miễn dịch kết hợp với lối sống gây nên tình trạng dễ bị viêm nhiễm và mắc các bệnh lây truyền khác qua đường sinh dục.
DỰ ÁN NÂNG CAO NĂNG LỰC TRUYỀN THÔNG VÀ GIÁM SÁT, ĐÁNH GIÁ THỰC HIỆN CHƯƠNG TRÌNH THUỘC CHƯƠNG TRÌNH MỤC TIÊU QUỐC GIA Y TẾ
Chẩn đoán:
Phát hiện bệnh:
Dương vật là bộ phận sinh dục ngoài, chỉ cần quan sát bằng mắt thường đã có thể phát hiện ra các tổn thương từ rất sớm. Các bệnh nhân ung thư dương vật phát hiện muộn khi bệnh nhân tự phát hiện ra bệnh nhưng xấu hổ không đến cơ sở y tế để khám bệnh bởi các thuốc chuyên khoa, hoặc bệnh nhân đến các cơ sở y tế nhưng được chẩn đoán nhầm với một số tổn thương lành tính như viêm loét mạn tính, các u sùi lành tính.
Cần chú ý tới những phát triển bất thường đối với dương vật như: đau, vết loét lâu liền điều trị kháng sinh dai dẳng không đỡ, vết bạch sản, mụn cóc. Nếu có các tổn thương này nên đến các cơ sở y tế chuyên khoa để được khám chẩn đoán chính xác.
Hầu hết trong các trường hợp không hẹp bao qui đầu, dấu hiệu đầu tiên là da dương vật dày lên và thay đổi màu sắc, tiếp theo là xuất hiện loét không đau hoặc phát triển thành u đặc biệt ở qui đầu và bao qui đầu, cũng có khi ở thân dương vật. Các tổn thương này hầu hết không gây đau.
Một số trường hợp thì xuất hiện như ban hơi đỏ hoặc thẫm màu, mảng nhỏ giòn, rát phẳng màu nâu xanh nhạt.
Với trường hợp có hẹp bao qui đầu thì các dấu hiệu thường bị che lấp khó chẩn đoán sớm. Giai đọan đầu u nhỏ thường kín đáo, ngứa do viêm nhiễm kéo dài, chảy dịch hôi điều trị nội khoa không khỏi. Khi đến khám phải mở bao qui đầu mới thấy u với đặc điểm u dễ chảy máu, rất hôi. Giai đoạn muộn thì dương vật có hình lắc chuông hay hình dùi trống.
Khi bệnh nhân đến ở giai đoạn muộn, u có thể lan rộng gây bít tắc niệu đạo, bệnh nhân có thể bí đái hoàn toàn hoặc khó đi tiểu, có thể kèm theo các triệu chứng của viêm nhiễm đường tiết niệu như đái buốt, đái dắt, đái máu.Vì vậy nên quan hệ tình dục an toàn.
Có thể sờ thấy hạch bẹn một bên hoặc cả hai bên, hạch có thể di động hoặc cố định.
Các triệu chứng lâm sàng trên có giá trị gợi ý cho bệnh nhân và thầy thuốc hướng tới chẩn đoán ung thư dương vật và cần thiết phải làm xét nghiệm chẩn đoán mô bệnh học để khẳng đinh chắc chắn:
Các xét nghiệm cận lâm sàng như chẩn đoán hình ảnh giúp đánh giá trước mổ, giai đoạn bệnh.
– Siêu âm ổ bụng xem có di căn hạch và các tạng ổ bụng không ?
– Chụp X quang phổi đánh giá tình trang xem có di căn phổi không?
– Chụp cắt lớp vi tính, chụp cộng hưởng từ và một số xét nghiệm khác khi cần
thiết để xác định tình trạng lan rộng của khối u, các tổn thương di căn nếu có.
Đánh giá giai đoạn trước điều trị rất quan trọng, giai đoạn sẽ quyết đinh các phương pháp điều trị áp dụng trên từng bệnh nhân cụ thể.
Ngoài ra các xét nghiệm cận lâm sàng khác như xét nghiệm đánh giá chức năng gan, thận, hệ tạo huyết và chức năng một số cơ quan khác giúp hỗ trợ cho các phương pháp điều trị như phẫu thuật, tia xạ và hóa chất.
Chẩn đoán giai đoạn tuỳ theo mức độ lan rộng của khối u, di căn hạch và tình trạng di căn xa, người ta chia thành các giai đoạn 0, 1, 2, 3 và 4.